Khí máu động mạch là gì? Các công bố khoa học về Khí máu động mạch

Khí máu động mạch (còn được gọi là Oxyhemoglobin) là một chất hóa học hình thành khi phân tử oxygen (O2) kết hợp với protein hemoglobin trong hồng cầu. Nó được ...

Khí máu động mạch (còn được gọi là Oxyhemoglobin) là một chất hóa học hình thành khi phân tử oxygen (O2) kết hợp với protein hemoglobin trong hồng cầu. Nó được vận chuyển từ phổi đến các cơ, mô và các cơ quan khác trong cơ thể để cung cấp oxy cho các quá trình cháy nhiên liệu và sinh tổng hợp năng lượng. Đây là dạng máu giàu oxy và có màu đỏ tươi.
Khí máu động mạch là một trạng thái của máu khi nó chứa oxy và được vận chuyển từ phổi đến các mô và cơ quan khác trong cơ thể. Quá trình này bắt đầu khi bạn hít thở và oxy trong không khí được hấp thụ vào phổi. Oxy sau đó sẽ kết hợp với protein hemoglobin trong hồng cầu, tạo thành khí máu động mạch.

Hemoglobin là một protein chịu trách nhiệm cho quá trình vận chuyển oxy trong máu. Mỗi phân tử hemoglobin chứa bốn mắc xi lanh, mỗi mắc xi lanh có khả năng kết hợp với một phân tử oxy. Khi oxy kết hợp với hemoglobin, nó tạo thành oxyhemoglobin.

Oxyhemoglobin là một phần quan trọng của hệ thống vận chuyển oxy trong cơ thể. Nó cung cấp oxy giàu cho các tế bào và mô trong cơ thể để hỗ trợ quá trình cháy nhiên liệu và sinh tổng hợp năng lượng. Các tế bào và mô sử dụng oxy trong quá trình trao đổi chất để sản xuất năng lượng cần thiết cho hoạt động của chúng.

Máu giàu oxy (khí máu động mạch) có màu đỏ tươi, và nó được cuộn chảy qua các động mạch đến các vùng khác nhau của cơ thể. Tại các mô và cơ quan, oxy sẽ được giải phóng từ oxyhemoglobin và được sử dụng trong quá trình trao đổi chất. Sau đó, máu sẽ trở thành máu giàu carbon dioxide và trở về lại tim qua hệ thống tĩnh mạch để được vận chuyển trở lại phổi để tiếp tục quá trình trao đổi khí.

Trạng thái khí máu động mạch là trạng thái quan trọng để đảm bảo cung cấp oxy đầy đủ cho các tế bào và cơ quan trong cơ thể. Khi xảy ra sự cắt giảm oxy, như khi hô hấp bị gián đoạn hoặc khi cơ thể gặp vấn đề về hô hấp, khí máu có thể bị ảnh hưởng và gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
Trong quá trình hô hấp, oxy từ không khí sẽ vào phổi và được hấp thụ vào máu thông qua màng nhờn ở bề mặt của phổi. Oxy sau đó sẽ kết hợp với và gắn vào các phân tử hemoglobin trong hồng cầu, tạo thành khí máu động mạch.

Hemoglobin, một protein có mặt trong hồng cầu, có khả năng kết hợp với oxy. Mỗi phân tử hemoglobin có thể kết hợp với bốn phân tử oxy. Khi oxy kết hợp với hemoglobin, nó tạo thành oxyhemoglobin, một phức chất ổn định.

Oxyhemoglobin có màu đỏ tươi và là hình thức máu giàu oxy. Nó được vận chuyển qua các mạch máu động mạch đi qua các mạch máu nhỏ hơn (mạch máu cơ và mạch máu thành) và cuối cùng đến các tế bào và mô trong cơ thể. Oxy từ oxyhemoglobin được giải phóng và dùng để cung cấp năng lượng và oxi hóa các chất béo, carbohydrates và protein trong quá trình chuyển hóa năng lượng. Đồng thời, nó cũng cung cấp oxi cho các quá trình sinh tổng hợp và phục hồi tế bào.

Dưới tác động của sức ép tương tác giữa oxy và các tế bào hay cơ quan, oxy sẽ được giải phóng từ oxyhemoglobin và phục vụ cho các quá trình tạo năng lượng và sinh tổng hợp. Đồng thời, các chất thải như carbon dioxide (CO2) được tạo ra và vận chuyển đến các mô để được loại bỏ khỏi cơ thể.

Khi máu đã trao đổi khí với các tế bào, máu trở nên giàu carbon dioxide và mất đi oxy. Máu này được coi là máu giàu carbon dioxide và được vận chuyển thông qua các mạch máu tĩnh mạch trở lại tim, sau đó được đẩy vào phổi để được oxy lại thông qua quá trình hô hấp.

Quá trình vận chuyển khí máu động mạch là cốt lõi trong việc duy trì sự sống và hoạt động của cơ thể. Khi máu không thể mang đủ mức oxy cần thiết hoặc khi có sự cản trở trong quá trình trao đổi khí, các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng có thể xảy ra. Ví dụ, thiếu máu oxy gây mệt mỏi, khó thở, vàng da, và những vấn đề khác liên quan đến hệ thống hô hấp và tuần hoàn.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "khí máu động mạch":

Đánh giá thay đổi khí máu động mạch và điện giải đồ trong mổ ở bệnh nhân phẫu thuật tán sỏi thận qua da
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá sự thay đổi khí máu động mạch và điện giải đồ trong mổ ở bệnh nhân phẫu thuật tán sỏi thận qua da. 90 bệnh nhân phẫu thuật tán sỏi thận qua da theo chương trình được đánh giá phân tích khí máu động mạch và điện giải đồ trước mổ và sau mổ tại Trung tâm Gây mê & Hồi sức ngoại khoa – Bệnh viện Việt Đức từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2020. Nồng độ Na giảm (139,96 ± 1,94 vs 134,03 ± 1,91), Clo tăng (102,61 ± 2,62 vs 106,76 ± 2,95) cũng như chỉ số HCO3 giảm (23,50 ± 4,01 vs 19,77 ± 6,30); BE giảm (-0,09 ± 1,22 vs -1,66 ± 1,29) ở thời điểm sau mổ có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với thời điểm trước mổ đặc biệt ở nhóm phẫu thuật kéo dài > 2 giờ. Chỉ số lactat sau mổ cũng cao hơn có ý ngĩa thống kê so với trước mổ (1,25 ± 0,79 vs 1,65 ± 0,41; p < 0,05). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự thay đổi có ý nghĩa về 1 số chỉ số trong điện giải đồ và khí máu động mạch sau phẫu thuật tán sỏi thận qua da.
#tán sỏi thận qua da #điện giải đồ #khí máu động mạch.
KHẢO SÁT THAY ĐỔI MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT ĐỘNG TRONG MỔ VÀ KHÍ MÁU ĐỘNG MẠCH Ở BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT TIÊU HÓA LỚN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 2 - 2022
Phẫu thuật tiêu hóa lớn là phẫu thuật gây ra tình trạng mất máu, mất dịch nhiều và có thể gây ra nhiều biến đổi huyết động trong mổ. Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành tại khoa Gây mê hồi sức và Chống đau - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2021 trên 138 bệnh nhân nhằm khảo sát thay đổi một số chỉ số huyết động trong mổ và biến đổi trong khí máu động mạch trong và sau mổ. Kết quả cho thấy tỉ lệ tụt huyết áp sau khởi mê xảy ra ở 44,9% số bệnh nhân, huyết áp trung bình giảm 16% so với mức nền. Xét nghiệm khí máu động mạch cho thấy xu hướng toan hỗn hợp khi mổ kéo dài, sau mổ có tình trạng giảm PaO2 và PaO2/FiO2 có ý nghĩa thống kê. Kết luận: các bệnh nhân được phẫu thuật tiêu hóa lớn có tình trạng tụt huyết áp khi khởi mê, tuy nhiên trong cuộc mổ huyết động biến đổi không nhiều, đồng thời xu hướng toan hóa máu khi thời gian phẫu thuật kéo dài và giảm oxy máu sau phẫu thuật. 
#phẫu thuật tiêu hóa lớn #thay đổi huyết động #khí máu động mạch
Một số yếu tố liên quan đến thay đổi khí máu động mạch và điện giải đồ trong mổ ở bệnh nhân tán sỏi thận qua da
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm mô tả một số yếu tố liên quan đến sự thay đổi khí máu động mạch và điện giải đồ trong mổ ở bệnh nhân tán sỏi thận qua da. Thiết kế nghiên cứu mô tả được thực hiện trên 89 bệnh nhân tán sỏi thận qua da theo chương trình được xét nghiệm khí máu động mạch và điện giải đồ trước mổ và sau mổ tại Trung tâm Gây mê & Hồi sức Ngoại khoa - Bệnh viện Việt Đức từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2020. Nồng độ Na, Kali, pH và lactat không có mối tương quan với thời gian tán sỏi, thể tích dịch rửa, thể tích dịch hấp thu với p > 0,05. Clo máu có tương quan ở mức độ rất chặt chẽ với thời gian tán sỏi (r = 0,8 với p < 0,05). Tương tự, nồng độ HCO3, BE có tương quan chặt chẽ với thời gian tán sỏi (r = 0,8 & 0,81), thể tích dịch rửa (r = 0,82 & 0,84), thể tích dịch hấp thu (r = 0,77 & 0,74) với p < 0,05. Một số yếu tố trong phẫu thuật như thời gian tán sỏi, thể tích dịch rửa, thể tích dịch hấp thu có mối tương quan chặt chẽ với sự thay đổi một số chỉ số khí máu động mạch và điện giải đồ ở bệnh nhân tán sỏi thận qua da.
#Tán sỏi thận qua da #điện giải đồ #khí máu động mạch #yếu tố liên quan.
ĐẶC ĐIỂM KHÍ MÁU ĐỘNG MẠCH TRONG ĐỢT CẤP CỦA BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả xét nghiệm khí máu động mạch ở bệnh nhân bị đợt cấp của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, đánh giá kết quả khí máu trên 152 bệnh nhân được chẩn đoán xác định đợt cấp COPD, điều trị nội trú tại Bệnh viện Phổi Trung ương từ tháng 9/2016 - 02/2019. Kết quả: Đa số (61,2%) số bệnh nhân có giảm PaO2 và 53,9% bệnh nhân có tăng  PaCO2. Giá trị trung bình của một số chỉ tiêu khí máu pH 7.395 ± 0,049, PaO2 82.268 ± 11.838, PaCO2 46.037 ± 11.838, HCO3- 27.338 ± 5.107. Có 93 bệnh nhân đợt cấp COPD nhập viện chiếm 61,2% có tình trạng suy hô hấp biểu hiện trên khí máu động mạch. Đặc điểm các bệnh nhân suy hô hấp theo khí máu động mạch trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu là tăng PaCO2 chiếm 54,8 %, suy hỗn hợp 35,5% và suy hô hấp giảm PaO2 đơn thuần 9,7%. Kết luận: Khí máu động mạch là xét nghiệm rất có ý nghĩa không những để chẩn đoán suy hô hấp mà còn đánh giá tình trạng rối loạn kiềm toan trong đợt cấp của COPD.
#bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính #COPD #khí máu #đợt cấp
Tính hợp lệ của phân tích khí máu tĩnh mạch trong chẩn đoán mất cân bằng acid-base ở trẻ em nhập viện tại đơn vị chăm sóc đặc biệt nhi khoa Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 4 - Trang 114-117 - 2008
Phân tích khí máu động mạch (ABG) là công cụ chính để chẩn đoán và điều trị đúng mất cân bằng acid-base, nhưng tính chất xâm lấn của việc chọc mạch động mạch và những nguy cơ có thể xảy ra như co thắt động mạch đã dẫn đến xu hướng toàn cầu về các phương pháp chẩn đoán ít xâm lấn hơn, bao gồm phân tích khí máu tĩnh mạch (VBG). Nghiên cứu này nhằm đánh giá tính hợp lệ của VBG và sự đồng thuận lâm sàng của nó với ABG trong 10 bệnh lý phổ biến nhất ở đơn vị chăm sóc đặc biệt nhi khoa (PICU), và để trả lời câu hỏi về việc nó có thể thay thế xét nghiệm ABG đến mức nào. Trong một nghiên cứu phân tích cắt ngang từ tháng 9 năm 2004 đến tháng 9 năm 2005, 200 bệnh nhân trong 10 loại bệnh đã nhận được phân tích khí máu. Kết quả của các xét nghiệm khí máu như pH, PCO2 và HCO3 của cả mẫu máu động mạch và tĩnh mạch (được lấy đồng thời từ mỗi bệnh nhân) đã được ghi lại và so sánh bằng phân tích thống kê (thống kê kappa) để xác định tính hợp lệ và sự đồng thuận lâm sàng của chúng. Ở một số bệnh như hội chứng suy hô hấp, nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh, suy thận, viêm phổi, nhiễm toan ceton do tiểu đường và trạng thái động kinh, phân tích VBG cho thấy tính hợp lệ tốt (độ nhạy và độ đặc hiệu cao) đi kèm với sự đồng thuận lâm sàng thích hợp (trên 40%), nhưng ở các bệnh khác như cơn co giật ở trẻ sơ sinh, sốc, suy tim sung huyết và bệnh tim bẩm sinh, có tính hợp lệ không thích hợp hoặc sự đồng thuận lâm sàng yếu (dưới 20%). VBG có thể được sử dụng thay thế cho ABG trong một số bệnh như hội chứng suy hô hấp, nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh, suy thận, viêm phổi, nhiễm toan ceton do tiểu đường và trạng thái động kinh, nhưng trong các bệnh khác như cơn co giật ở trẻ sơ sinh, sốc, suy tim sung huyết và bệnh tim bẩm sinh, ABG là lựa chọn ưu tiên và không nên bị thay thế bởi VBG. Những kết quả này có thể được sử dụng cho việc xây dựng các hướng dẫn trong tương lai cho PICU.
#phân tích khí máu tĩnh mạch #phân tích khí máu động mạch #mất cân bằng acid-base #đơn vị chăm sóc đặc biệt nhi khoa #sức khỏe trẻ em
Tác động của nhiệt độ và áp suất khí quyển đến tỷ lệ các sự kiện tim mạch cấp tính nghiêm trọng Dịch bởi AI
Netherlands Heart Journal - Tập 20 - Trang 193-196 - 2012
Tác động của các điều kiện khí tượng đến sự xuất hiện của các sự kiện tim mạch khác nhau đã được báo cáo trên toàn thế giới. Dữ liệu về tình hình ở Hà Lan còn hạn chế. Chúng tôi tìm cách xác định mối tương quan giữa các điều kiện thời tiết và tỷ lệ mắc các sự kiện tim mạch cấp tính lớn như rách động mạch chủ cấp tính loại A (AAD), nhồi máu cơ tim cấp (AMI) và phình động mạch chủ bụng cấp tính (AAAA). Giữa tháng 1 năm 1998 và tháng 2 năm 2010, các bệnh nhân nhập viện tại bệnh viện của chúng tôi (Bệnh viện Catharina, Eindhoven, Hà Lan) do AAD (n = 212), AMI (n = 11389) hoặc AAAA (n = 1594) đã được ghi nhận. Dữ liệu này được liên kết với dữ liệu khí tượng do Viện Khí tượng Hoàng gia Hà Lan (KNMI) cung cấp trong cùng khoảng thời gian. Trong thời gian nghiên cứu, tổng số bệnh nhân nhập viện vì AMI là 11.412, 212 bệnh nhân với AAD và 1593 bệnh nhân với AAAA. Một mối tương quan đáng kể đã được tìm thấy giữa nhiệt độ hàng ngày và số lần nhập viện do AAD. Nhiệt độ hàng ngày càng thấp, tỷ lệ mắc AAD càng cao (p = 0.002). Nhiệt độ thấp cũng là một yếu tố dự đoán của tỷ lệ mắc AMI cao hơn (p = 0.02). Không tìm thấy mối tương quan đáng kể giữa nhiệt độ hàng ngày và sự khởi phát của AAAA. Thời tiết lạnh có liên quan đến tỷ lệ mắc AAD và AMI cao hơn.
#tim mạch #nhiệt độ #áp suất khí quyển #rách động mạch chủ cấp #nhồi máu cơ tim #phình động mạch chủ bụng
Tần suất tắc nghẽn động mạch quay sau khi thông tim sử dụng băng nén khí qua đường quay Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 13 - Trang 1-4 - 2020
Tắc nghẽn động mạch quay là một biến chứng thầm lặng của phương pháp tiếp cận qua động mạch quay trong thủ thuật thông tim, có thể gây ra các vấn đề trong các thủ thuật qua đường quay sau này ở những bệnh nhân thực hiện thông tim. Việc sử dụng băng nén qua đường quay giúp giảm thiểu các biến chứng mạch máu và cung cấp khả năng cầm máu nhanh chóng, mạnh mẽ và hiệu quả. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá tần suất tắc nghẽn động mạch quay ở 180 bệnh nhân thực hiện thông tim và thông động mạch vành qua đường quay. Độ tuổi trung vị của nhóm nghiên cứu là 58 tuổi. Tắc nghẽn động mạch quay được phát hiện ở 14 (7,8%) bệnh nhân. Khi phân loại theo nhóm tuổi và giới tính, không có sự khác biệt đáng kể về tắc nghẽn động mạch quay giữa các nhóm tuổi và giới tính. Ngoài ra, các bệnh nền như tiểu đường, tăng huyết áp và hút thuốc cũng làm tăng nguy cơ tắc nghẽn động mạch quay, tuy nhiên, điều này chỉ được ghi nhận là có ý nghĩa đối với bệnh tiểu đường. Do đó, chúng tôi kết luận rằng băng nén khí qua đường quay là một chiến lược rất hữu ích và an toàn để ngăn ngừa tắc nghẽn động mạch quay.
#tắc nghẽn động mạch quay #thông tim #băng nén khí #biến chứng mạch máu
Xác nhận giá trị sử dụng của một số chỉ số xét nghiệm trên hệ thống phân tích khí máu RAPIDPOINT 500E
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 186 Số 1 - Trang 1-9 - 2025
Xét nghiệm khí máu là một xét nghiệm rất quan trọng trong thực hành lâm sàng, giúp cung cấp các thông số thành phần khí máu như O2, CO2 và các tình trạng thăng bằng kiềm toan (pH) của cơ thể. Tất cả các xét nghiệm, gồm cả xét nghiệm nhanh tại chỗ (POCT) cần được xác nhận giá trị sử dụng trước khi chính thức đưa vào sử dụng. Nghiên cứu này xác nhận giá trị độ đúng và độ chụm của các xét nghiệm pH, pO2, pCO2 trên máy phân tích khí máu RAPIDPOINT 500E (SIEMENS) tại khoa Cấp cứu Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình theo hướng dẫn EP15A3 của CLSI. Độ chụm và độ đúng của xét nghiệm pH, pO2, pCO2 trong phân tích khí máu ở 3 mức QC của pH nhỏ hơn tiêu chuẩn CLIA 2024 và được xác nhận giá trị sử dụng.
#Xác nhận phương pháp #xét nghiệm khí máu động mạch (ABG) #xét nghiệm nhanh tại chỗ (POCT)
10. So sánh một số chỉ số trao đổi khí đo bằng phương pháp không xâm lấn với các chỉ số khí máu động mạch ở bệnh nhân thông khí nhân tạo xâm nhập
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 180 Số 7 - Trang 79-85 - 2024
Nghiên cứu nhằm đánh giá tương quan của các thông số khí máu trên đo khí máu động mạch không xâm lấn và xâm lấn trên bệnh nhân thông khí nhân tạo xâm nhập. Nghiên cứu mô tả từ tháng 06/2023 đến tháng 9/2023. Nghiên cứu ghi nhận 50 cặp biến cùng thời điểm trên 35 bệnh nhân thở máy xâm nhập tại Khoa Cấp cứu và Hồi sức tích cực của Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Có mối tương quan tốt giữa gPaO2, O2 Deficit và EtCO2 từ phép đo không xâm lấn khi so sánh với PaO2, AaDO2 và PaCO2 khí máu động mạch với r là 0,83; 0,98 và 0,71. Phân tích Bland - Altman về các thông số gPaO2, EtCO2 trên khí máu không xâm lấn so với PaO2, PaCO2 của khí máu động mạch xâm lấn, có sự tương đồng tốt với Mean bias lần lượt là -1,14 và 5,26; phần trăm sai số là 26,23% và 31,25%. Nghiên cứu cho thấy phương pháp đo khí máu không xâm lấn này có sự tương đồng và tương quan về chỉ số phân áp O2, phân áp CO2 so với đo bằng phương pháp xâm lấn ở bệnh nhân thở máy xâm nhập.
#Khí máu không xâm lấn #Khí máu động mạch #Suy hô hấp #Thở máy xâm nhập
Về động học của các giá trị khí máu động mạch trong điều kiện gánh nặng công việc được kiểm soát liên quan đến việc đánh giá Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 48 - Trang 402-407 - 1970
149 công nhân nam và nữ được chọn lọc đã được phân tích khí máu trước và trong quá trình gánh nặng bằng ergometer theo từng cấp độ. Ngoài một giá trị trong điều kiện nghỉ ngơi, ba giá trị khác được xác định vào đầu phút thứ 2, 4 và 6 của gánh nặng. Ở 83,2% đối tượng, hành vi của áp suất riêng phần oxy trong quá trình thích nghi với công việc được kiểm soát cho phép hình thành 3 loại: Tăng (Loại 1), Giảm (Loại 2) và “vết cắt ban đầu” (Loại 3). Tần suất tương đối của các loại này là khoảng 20:20:40%. Việc phân loại dựa trên độ tuổi và giới tính cũng như các cấp độ gánh nặng không dẫn đến sự xuất hiện khác biệt thống kê của 3 loại chính này. Đối với các giá trị đo lường sinh trắc học và đặc biệt là trong các phép đo spirography và toàn thân plethysmography của các nhóm được phân chia theo 3 loại hồ sơ gánh nặng PaO2, không thể xác nhận sự khác biệt thông qua phân tích phương sai. Cụ thể, sự giảm của PaO2 với mức trung bình 6,3–9,6 Torr không đi kèm với các giá trị sinh trắc học và phân tích chức năng phổi nổi bật theo nghĩa của một “biến thể âm”. Tình huống này nên được xem xét nhằm làm rõ giá trị của giới hạn hiệu suất hô hấp được xác định bằng khí máu — đặc biệt trong các quy trình đánh giá y tế xã hội.
#khí máu động mạch; gánh nặng công việc; phân tích khí máu; áp suất oxy; chức năng phổi
Tổng số: 15   
  • 1
  • 2